Phân tích bài thơ vội vàng của Xuân Diệu - một hồn thơ sôi nổi, tha thiết yêu đời

10/05/2021 Đăng bởi: cầu Công ty cổ phần CCGroup toàn
Phân tích bài thơ vội vàng của Xuân Diệu - một hồn thơ sôi nổi, tha thiết yêu đời

Bài thơ Vội vàng là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của Xuân Diệu mà chính ông đã thừa nhận rằng: “Đây là lòng tôi đương thời sôi nổi, đây là hồn tôi, và đây là sự sống của tôi nữa. Tôi gửi hồn tôi cho những người trẻ tuổi, và nhất là những người trẻ lòng.”

Tìm hiểu nội dung chính bài thơ vội vàng của Xuân Diệu

Tổng hợp văn mẫu phân tích bài vội vàng đầy đủ cả 3 khổ thơ

TOP3 dàn ý và văn mẫu phân tích nhân vật Chí Phèo chi tiết nhất

TRỌN BỘ ĐỀ + LỜI GIẢI CHI TIẾT 9 MÔN ĐỀ MINH HỌA 2020 LẦN 2

Qua bài thơ vội vàng ta sẽ thấy được bức chân dung tự họa và tuyên ngôn bằng thơ của Xuân Diệu về lẽ sống, quan niệm sống đầy thiết tha, rạo rực, băn khoăn. Chủ đề thơ tập trung trong 2 chữ “Vội vàng” với hai câu hỏi: Tại sao phải sống vội vàng?Sống vội vàng là sống như thế nào?

1, Phân tích bài thơ vội vàng 4 dòng đầu

 Vội vàng của Xuân Diệu là bức chân dung tự họa, là một bản tuyên ngôn bằng thơ về lẽ sống

“Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi”

4 câu đầu được kết cấu kiểu thơ vắt dòng, kết hợp với điệp cấu trúc, tạo thành 4 dòng thơ 5 chữ mang dáng dấp của 1 lời đề từ. Đại từ nhân xưng “tôi” xuất hiện từ đầu với tư thế dõng dạc, đường hoàng, tuyên xưng khát vọng của mình qua đại từ “muốn”. Ngay từ khổ thơ đầu tiên bài thơ vội vàng ta đã thấy được giọng điệu của người chủ soái trong phong trào Thơ Mới

Thì ra, thi sĩ muốn đoạt quyền tạo hóa để lưu giữ hương, nâng niu màu của cuộc sống. Màu sắc, hương thơm chính là cái đẹp. Ngay từ 4 câu đầu, Xuân Diệu đã tự phác thảo chân dung tình thần của mình là một chàng thi sĩ trẻ tuổi, trẻ lòng, táo bạo, mãnh liệt nhưng cũng đầy lãng mạn, thơ mộng. Vội vàng chính là lẽ sống của chàng.

2, Phân tích bài thơ vội vàng 7 dòng tiếp theo

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây lá của cành tơ phơ phất

Của yến anh này đây khúc tình si

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

Trước tiên, đoạn thơ tái hiện một thiên đường trên mặt đất. Xuân Diệu tái hiện hình ảnh khu vườn chốn trần gian. Vườn là một tín hiệu nghệ thuật quen thuộc của các nhà Thơ Mới. Vườn xuân tràn trề sự sống. Tất cả các hình ảnh, chi tiết đều được tái hiện ở trạng thái non tơ, mơn mởn. Mảnh vườn Xuân Diệu còn đặc biệt nhất với mảnh vườn tình. Trong cảm nhận về bài thơ vội vàng đây chính là khu vườn của một tâm hồn thiết tha, rạo rực, băn khoăn, đồng thời còn được mệnh danh là ông hoàng thơ tình.

Các nhà Thơ Mới cùng thời với Xuân Diệu có nhiều cách hình dung khác nhau về cuộc sống. Có người chỉ thấy cuộc sống ý nghĩa khi mơ về quá khứ, có người thoát lên tiên, có người chìm đắm trong tưởng tượng,… Chỉ có riêng Xuân Diệu khác biệt: Những hình ảnh thiên nhiên trong thơ ông sống động, gần gũi. Đây chính là một cái mới mà Xuân Diệu đem đến, đồng thời góp phần thể hiện tình yêu đời, yêu cuộc sống mãnh liệt, nồng nàn.

Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã đưa ra nhận xét về Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới

Đoạn thơ thứ hai bài thơ vội vàng còn thể hiện quan điểm thẩm mĩ mới mẻ và độc đáo: với việc bày ra một bữa tiệc nơi khu vườn tình ái và điệp từ “này đây” xuất hiện 5 lần. Đây là từ chỉ định, nó không chỉ gợi ra sự sung mãn, tràn trề, phong phú, dồi dào của cảnh vật, mà quan trọng hơn, nó cho ta biết khoảng cách giữa thi sĩ và cái đẹp: gần, rất gần, ngay bên cạnh, tưởng chừng chỉ cần chạm tay là tới. Cái đẹp luôn mời gọi đầy quyến rũ, giữa cõi trần này, quanh chúng ta.

 “Chuẩn mực của cái đẹp là gì?”: Điều này thể hiện rõ qua các phép so sánh đầy biểu cảm và làm nên phong cách Xuân Diệu. Trong đoạn thơ thứ hai bài thơ vội vàng thì tiêu biểu nhất là câu: “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”. Trước Xuân Diệu, trong nền thơ ca truyền thống Việt Nam, rất chuộng lối nói: “Người ta là hoa đất”; “Miệng cười như thể hoa ngâu/ Cái khăn đội đầu như thể hoa sen”; “Làn thu thủy, nét xuân sơn”;… Nghĩa là cái đẹp của thiên nhiên luôn là chuẩn mực cho cái đẹp của con người.

Đến Xuân Diệu, với bài thơ vội vàng, tháng Giêng – thiên nhiên lại được đem so sánh với một cặp môi gần của người thiếu nữ. Đây là sự đảo chiều ngoạn mục trong tư duy. Với Xuân Diệu, cùng là chuẩn mực cái đẹp, là chuẩn mực của vũ trụ, nhưng không phải là cùng trong tuổi trẻ, trong tình yêu. “Cặp môi gần” có lẽ là đôi môi gợi cảm, quyến rũ của người con gái.

Sáng tạo nghệ thuật của Xuân Diệu: Đoạn thơ còn thể hiện rõ những cách tân giữa các yếu tố nghệ thuật, tiêu biểu nhất là ảnh hưởng của ông với lối thơ tượng trưng Pháp câu thơ là sự huy động, kích thích nhiều giác quan, có những câu là sự trộn, chuyển kênh liên tục giữa các giác quan. Như vậy, tháng Giêng vừa quyến rũ, ngọt ngào, tựa thứ trái chín, lại có sự say đắm quyến rũ của một cô gái đẹp. Dù hiểu theo cách nào thì ta cũng thấy Xuân Diệu yêu thương, tha thiết, nồng nàn với tháng Giêng.

3, Phân tích bài thơ vội vàng 18 dòng tiếp

“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,

Không cho dài thời trẻ của nhân gian,

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;

Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,

Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…

Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”

 “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”: Đây là cú sốc về tiết tấu và nó là bản lề của tâm trạng. Đây là lần đầu tiên và duy nhất trong toàn bài, hai chữ “vội vàng” được láy lại từ nhan đề. Vội vàng chính là mẫn cảm về thời gian. Cái thú vị là hai chữ “một nửa”, đây là trạng thái tinh thần của Xuân Diệu: vừa đam mê, vừa đau khổ, vừa bắt đầu đã lo đến khi kết thúc, tình vừa non đã thấy sắp già rồi, vừa ở giữa khu vườn tình ái, thoắt cái đã thấy mình lạc lõng ở hoang mạc cô liêu.

Trong các chuyên đề vội vàng đều tập trung phân tích quan niệm về thời gian của Xuân Diệu

“Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già”.

Xuân Diệu sử dụng cấu trúc thơ theo lối định nghĩa với từ “nghĩa là”, Xuân Diệu đã đồng nhất 2 vế “đương tới” và “đương qua”, “non” và “già”. Về bản chất, đây là cái nhìn thời gian tuyến tính một đi không trở lại: “Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt”.

Trước thời Thơ Mới, thi nhân Việt Nam thường có cái nhìn bình thản, an nhiên trước vũ trụ; bởi lẽ, với họ thời gian là tuần hoàn, có tính luân hồi, xuân năm nay qua đi, xuân năm sau sẽ tới:

“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đinh tiền tạc dạ nhất chi mai”

(Cáo tật thị chúng – Mãn Giác Thiền Sư)

 Nghĩa là:

“Những tưởng xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một nhành mai”

(Có bệnh bảo mọi người – Mãn Giác Thiền Sư)

Vì vậy, ta có thể thấy được quan niệm của Xuân Diệu trong bài thơ vội vàng là quan niệm vô cùng mới mẻ và tích cực, nó cảnh tỉnh con người nên sống có ý nghĩa từng giây, từng phút.

Xuân Diệu tiếp tục sử dụng cấu trúc định nghĩa để đặt 2 vế xuân và tôi trong sự đồng đẳng. Đây có thể xem là lời phát biểu, lời tuyên ngôn của Xuân Diệu về cái tôi cá nhân. Với Xuân Diệu, thì ra, cái tôi cá nhân chỉ thực sự tồn tại, thực sự có giá trị, ý nghĩa khi ở trong mùa xuân, tức là trong tuổi trẻ, trong tình yêu.

nội dung bài thơ vội vàng trong đoạn thơ này còn tập trung khai thác quan niệm về mối quan hệ giữa tôi với thời gian: “Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi”. Thời gian thì vô hạn, đời người là hữu hạn, do đó, Xuân Diệu phủ nhận sự tồn tại vĩnh viễn của một cái tôi, của cái đẹp: “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”.

Mỗi khoảnh khắc đều đang diễn ra sự chia ly, lời tiễn biệt triền miên, bao trùm từ sông núi đến tháng năm, từ ngọn gió đến cánh chim:

“Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,

Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…

Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”

Nghệ thuật được sử dụng trong bài thơ vội vàng đoạn thứ 3: Nhân hóa, ẩn dụ chuyển đổi giác quan, điệp cấu trúc. Quả thực, Xuân Diệu là người bị ám ảnh về thời gian. Xuân Diệu sử dụng tất cả các giác quan để cảm nhận thời gian: khứu giác, thị giác, vị giác, cảm giác. Dù bằng giác quan nào thì đáp án cuối cùng là chia phôi, nghĩa là thời gian một đi không trở lại.

4, Phân tích bài thơ vội vàng 10 dòng cuối

“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng,

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

Đoạn thơ cuối cùng của bài thơ vội vàng mở đầu bằng một thái độ lựa chọn dứt khoát, quyết liệt:

“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”.

Câu thơ là một lời giục giã, đây là giọng thơ thường trực trong thơ Xuân Diệu:

“Mau với chứ, vội vàng lên với chứ

Em, em ơi! Tình non sắp già rồi.”

Hay:

“Gấp đi em! Anh rất sợ ngày mai”

3 chữ “Ta muốn ôm” đứng riêng một dòng thơ và đặt chính giữa dòng cho thấy vị trí đặc biệt quan trọng của nó. Với đại từ “ta”, dường như Xuân Diệu muốn lan tỏa, muốn truyền nhiệt sống đến cả những người xung quanh, để rồi liên tiếp phía sau là một chuỗi những dòng thơ trùng điệp về cấu trúc: bắt đầu bằng 2 chữ “ta muốn”, tâm điểm là 1 động từ, đối tượng của ta là những hình ảnh, sự vật được gọi tên bằng các cụm danh từ, động từ, tính từ.

Nhìn vào hệ thống động từ trong đoạn cuối bài thơ vội vàng ta có thể thấy, chất Xuân Diệu rất đậm nét: ôm, riết, say, thâu, cắn. Đây đều là những động từ mạnh ở thể chủ động. Không chỉ diễn tả tâm trạng, các giác quan, mà chúng còn là những động từ chỉ sự yêu đương nồng nàn. Như vậy, Xuân Diệu không chỉ chiêm ngưỡng, ngắm nhìn, mà còn có khát khao, hành động chiếm lĩnh. Đọc đến đây, người ta có cảm giác Xuân Diệu giống như một người tình tha thiết, đắm say, mà tình thương của chàng là mùa xuân, là thiên nhiên bất tận.

 Xuân Diệu còn được mệnh danh là ông hoàng thơ tình với những bài thơ tình yêu dào dạt, ướt át

Nếu ở những dòng thơ đầu bài thơ vội vàng Xuân Diệu bày tỏ trước người đọc một bữa tiệc trần gian, thì đoạn này, một lần nữa, Xuân Diệu đưa người đọc thăng hoa khi lựa chọn những từ ngữ, hình ảnh: “sự sống mới bắt đầu mơn mởn”, “mây đưa và gió lượn”, “cánh bướm với tình yêu”, “cái hôn nhiều”, “non nước”, “cây”, “cỏ”, “xuân hồng”. Bản thân những sự vật nhà thơ lựa chọn vốn đã rất đẹp, ông không ngừng gia tăng sức quyến rũ của chúng với động từ, tính từ để gợi tả vẻ đẹp non tơ, sự tươi trẻ.

Tất cả đẩy lên cao trào và kết thúc trong một lời hô gọi: “Hỡi Xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.”

Đây là câu thơ duy nhất trong bài có hình thức là một lời đối thoại, có từ để gọi. Phải chăng suốt từ đầu bài thơ là những nung nấu, khát khao, đến đây chúng buộc thành lời?

Như vậy, với Xuân Diệu, qua bài thơ vội vàng thì vội vàng là một sự lựa chọn ứng xử đến chống chọi với thời gian. Đây là quan niệm sống tích cực, tiến bộ, không giống với quan niệm sống gấp của giới trẻ bây giờ. Bởi lẽ nếu sống vội, sống gấp chỉ là sự hưởng thụ cá nhân ích kỉ, thì sống vội của Xuân Diệu là tận hưởng, tận hiến để không chỉ cá nhân được hạnh phúc, mà cuộc đời cũng lưu giữ được sắc hương.

Mọi thông tin xin mời liên hệ:

  • CCBook – Đọc là đỗ
  • Địa chỉ: Số 10 Dương Quảng Hàm, Cầu Giấy, Hà Nội
  • Hotline: 024.3399.2266
  • Email: [email protected]

Nguồn: ccbook.vn

Bạn cần hỗ trợ? Nhấc máy lên và gọi ngay cho chúng tôi - 02439996268
hoặc

  Hỗ trợ trực tuyến
popup

Số lượng:

Tổng tiền: